Đa số mọi người đều đồng ý rằng nhà nước phải nắm các trọng
trách thiết yếu trong nền kinh tế như giữ gìn an ninh trật tự; giám sát chất lượng
hàng hóa; chống đầu cơ phá giá và độc quyền để tạo môi trường đầu tư, cạnh
tranh và tiêu dùng lành mạnh; xử dụng ngân sách và thuế má chi tiêu vào những lợi
ích công cộng như giáo dục, y tế và hạ tầng. Nhưng đi sâu thêm một bước thì vai
trò của nhà nước trong giám sát, ngân sách và thuế má bao nhiêu là đủ để lãnh vực
công không bóp nghẹt khu vực tư nhân? Ngoài ra còn những tranh cãi gay gắt như
liệu nhà nước có áp đặt quan điểm về công bằng xã hội khi dùng thuế má để thay đổi
nguyên trạng giàu nghèo cách biệt; hoặc có nên can thiệp vào khủng hoảng kinh tế
thay vì để bàn tay vô hình tẩy rửa những quá độ của thị trường tự do; chính quyền
phải có kế hoạch tạo công ăn việc làm và phát triễn công nghiệp quốc gia hay để
tự do cho tư nhân và thị trường tăng trưởng trong quá trình tự thanh lọc?
Đó là những tranh luận muôn đời giữa các kinh tế gia. Trước
hết nói về thuế vì thuế má mang ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử lập quốc của Hoa
Kỳ với câu nói bất hủ “Taxation without presentation is tyranny” (Thuế má mà không
có đại biểu là độc tài) khích động dân chúng ở Tân Lục Địa nổi lên chống Hoàng
Gia Anh dành độc lập. Thuế là phương thức để nhà nước tái phân phối tài sản
trong xã hội. Đánh thuế lũy tiến (progressive tax) lên lợi tức và tài sãn là lấy
tiền nhà giàu để giúp người nghèo: lương bổng và của cải càng nhiều thì mức thuế
càng nặng. Thuế tiêu thụ (xăng dầu, v.v…) tạo gánh nặng cho người nghèo nhiều hơn
nhà giàu, chỉ vì người nghèo dùng phần lớn thu nhập của họ để chi tiêu vào các
vật dụng thiết yếu. Giảm thuế đầu tư thì nhà giàu có lợi trước, rồi sau đó mới
giúp công nhân có thêm công ăn việc làm. Tăng thuế di sản là tránh tình trạng
“con vua thì lại làm vua con sãi ở chùa lại quét lá đa” tạo ra một tầng lớp ngồi
không hưởng lợi vì tiền đẻ ra tiền (rent seekers).
Đa số các kinh tế gia đều đồng ý với biểu đồ thuế hình chử U
ngược (gọi là Laffer Curve) tức là nhà nước tăng thuế thì thu thêm tiền; nhưng
tăng đến mức độ nào đó thì tiền thu vào lại giảm bớt do sưu cao thuế nặng khiến
chẳng ai còn muốn làm việc. Các kinh tế gia cánh hữu cho rằng nên giữ mức thuế
tối đa khoảng 30-40%, cánh tả cho là phải tăng lên 70-90%. Cánh hữu quan niệm
giảm thuế để khuyến khích tư nhân đầu tư thì cánh tả lên án gọi là chính sách
“bỏ xương cho chó gặm” (trickle down economic) ưu tiên cho nhà giàu hưởng phần
lợi trước còn lại bao nhiêu rơi rớt mới đến nhà nghèo, với dẫn chứng rằng sau
40 năm cắt giảm thuế (từ thời Ronald Reagan) kết quả là khoảng cách giàu nghèo
tăng vọt, tiền của tập trung vào con số 1% trong khi thu nhập của 80% không hề
tăng.
Cánh tả đòi tăng thuế một phần nhằm thu hẹp khoảng cách giàu
nghèo, phần khác chi tiêu vào giáo dục, y tế và hạ tầng để tăng cường sức cạnh
tranh trong tương lai. Cánh tả gọi là đầu tư công (investment) thì cánh hữu cho
là lãng phí xài bậy (tax and spend), do ngay cả khi mức thuế liên bang (federal
tax) là 40% nhưng cộng thêm vào thuế tiểu bang (state tax), thuế hàng hóa
(sales tax), thuế nhà đất (property tax) thì cũng đã lên đến 60-65% nhưng nhà nước
vẫn không đủ tiền xài! Các chương trình xã hội lãng phí chẳng những bị lạm dụng
hay trợ cấp cho di dân bất hợp pháp mà còn tạo ra một guồng máy hành chánh khổng
lồ rình mò quấy nhiễu (harass) tư nhân. Riêng các chương trình xã hội gồm
Medicare For All (bảo hiểm sức khỏe cho mọi người) và Green New Deal (Kế hoạch
xanh) của ứng cử viên đảng Dân Chủ Bernie Sanger tốn kém 60 ngàn tỷ USD (3x GDP
Hoa Kỳ) tức là thuế 100% cũng không đủ vẫn chẳng sao vì Mỹ có thể mượn thêm tiền
với lãi xuất cực rẻ hiện giờ; mà nếu vẫn chưa đủ thì Hoa Kỳ có thể in thêm tiền
vô tội vạ theo thuyết Tân Tiền Tệ (Modern Monetary Theory) của các kinh tế gia
cánh tả.
Như vậy là thuế đi đôi với ngân sách và kích thước của nhà nước
trong kinh tế. Bài kế tiếp sẽ bàn về nhà nước có thể dùng tiền thuế để tiêu dùng
vào những chương trình nào.
No comments:
Post a Comment