Trước hết xin nhắc lại ý chính của bài 19: trong quản lý
kinh tế nhà nước Hoa Kỳ nói chung bao gồm Tổng Thống và Quốc Hội (do dân bầu) và
Ngân Hàng Trung Ương (NHTƯ tức một cơ quan hành chánh độc lập không do dân bầu).
NHTƯ Hoa Kỳ điều chỉnh nền kinh tế phát triển “nóng” hay “nguội” qua lãi xuất và
lượng tiền USD lưu hành trên thị trường, trong khi Tổng Thống và Quốc Hội điều
hành nền kinh tế bằng thuế má và ngân sách. Bài 19 đã tìm hiểu về NHTƯ, bài 20
này sẽ phân tích chi tiêu của chính quyền (bao gồm Hành Pháp và Lập Pháp) trong
khủng hoảng.
Trong mỗi quốc gia đều có chi tiêu công (public spending) và
tư (private spending). Tiền có chi ra thì mới tạo công ăn việc làm nhằm cung cấp
sản phẩm và dịch vụ, qua đó giúp kinh tế phát triển. Chi tiêu bao gồm mua sắm
(nhà cửa, áo quần, hãng xưởng…), đầu tư công (giáo dục, y tế, đường xá, điện nước…)
và đầu tư tư nhân (mở nhà máy, tiệm tùng, mua trang thiết bị mới…) Chi tiêu có
thể hiệu quả (đầu tư tốt chuẩn bị cho tương lai) hay bị thất thoát (tham nhủng)
hoặc lãng phí (cờ bạc, các công trình vô dụng). Vì khả năng chi tiêu trong mỗi
quốc gia đều có hạn nên một khi chi tiêu công quá nhiều sẽ đè bẹp chi tiêu tư.
Ngược lại nếu buôn bán yếu kém sẽ khiến doanh nghiệp và tư
nhân co cụm không dám đầu tư tiêu xài. Khi đó nhà nước phải đắp bù vào khoảng
trống chi tiêu nhằm tạo ra mức cầu tối thiểu làm nền chống đỡ nền kinh tế không
cho sụp đổ, bằng không đất nước sẽ rơi vào vòng xoáy suy thoái (kinh tế yếu kém
đi khiến dân chúng không dám tiêu xài; dân chúng không dám chi tiêu khiến buôn
bán càng thêm ế ẩm). Khi kinh tế tuột dốc tiền thuế thu vào giảm mạnh trong khi
chi tiêu công nhảy vọt nên chính quyền không khỏi lạm chi (deficit) trừ trường
hợp có khoảng dự trữ lớn. Phải đợi đến lúc kinh tế phục hồi và chi tiêu tư tăng
trở lại thì nhà nước mới giảm chi tiêu công để cân bằng ngân sách và trang trải
nợ công.
Chi tiêu công chia ra làm hai phần: quy định
(non-discretionary spending) và tùy tiện (discretionary spending). Các khoảng
chi tiêu công được quy định bao gồm an sinh xã hội và trợ cấp thất nghiệp - kinh
tế suy thoái, công nhân mất việc thì quỹ thất nghiệp tự động tăng nhảy vọt giúp
cho người mất việc có phương tiện sinh sống. Giả sử kinh tế được ví như chiếc
xe đò đang chạy bon bon nhưng thỉnh thoảng sụp ổ gà (rơi vào khủng hoảng) thì các
khoảng chi tiêu được quy định là ống nhún (shock absorber, hay còn gọi là automatic
stabilizer) bảo vệ sườn xe không bị gãy.
Các khoảng chi tiêu tùy tiện do Tổng Thống và Quốc Hội thương
lượng hàng năm tăng giảm bao gồm ngân sách quốc phòng, y tế, giáo dục, trợ cấp
xã hội, đầu tư hạ tầng, v.v… Trong trường hợp khẩn cấp như ôn dịch Vũ Hán Tổng
Thống và Quốc Hội Hoa Kỳ nhanh chóng thông qua gói cứu trợ khổng lồ 2.2 ngàn tỷ
USD giúp đỡ doanh nghiệp và các hộ gia đình có tiền sinh sống trong giai đoạn kinh
tế đóng băng. Trong tương lai là các chương trình đầu tư hạ tầng khổng lồ khác
nhằm tạo công ăn việc làm cho những người mất việc; hay tăng ngân sách y tế cho
những người không có bảo hiểm; và…tăng thuế để bù đắp các khoảng lạm chi.
Ngoài trừ các gói cứu trợ khẩn cấp thì những khoảng chi tiêu
tùy tiện còn lại mất rất nhiều thời giờ thương lượng và tranh cãi. Đảng Dân Chủ
đòi tăng thuế để mở rộng vai trò của nhà nước. Đảng Cộng Hòa đòi chính quyền cắt
giảm các khoảng chi tiêu không cần thiết thay vì tăng thuế. Kết quả của các cuộc
thương lượng thường là vừa tăng thuế vừa tăng chi (!) cho vừa lòng đôi bên. Chính
vì lý do này nên vai trò của NHTƯ Hoa Kỳ trở nên quan trọng: NHTƯ quyết định độc
lập và nhanh chóng nên tiền từ NHTƯ tức thời tuôn vào thị trường, trong khi ngân
sách từ những khoảng chi tiêu tùy tiện của chính quyền hứa thì nhiều nhưng chờ
hoài không thấy. Bù lại tiền của NHTƯ chạy sang các ngân hàng và đại công ty (tức
thị trường tài chánh) trước khi đến dân chúng nên giúp doanh nghiệp và nhà giàu
hưởng phần lợi lớn (giá nhà và chứng khoáng tăng nhanh hơn lương bổng và công ăn
việc làm) so với công nhân. Để so sánh thì các chi tiêu tùy tiện như đầu tư hạ
tầng một khi thông qua sẽ tạo công ăn việc làm và sản phẩm (đường xá, Internet)
có lợi lâu dài cho đất nước.
Trên nguyên tắc khi kinh tế suy thoái, thuế thu vào sụt giảm
nhưng nhà nước cần lạm chi bù đắp khoảng trống chi tiêu thì nợ công sẽ tăng. Ngược
lại khi kinh tế phát triển, thuế thu vào tăng thì nhà nước cần giảm bớt chi tiêu
để không dành vốn với khu vực tư nhân, đồng thời trả bớt nợ công. Tuy nhiên
trong thực tế một khi nhà nước đã phình to ra rất khó thu nhỏ lại. Mọi khoảng
chi tiêu công đều có lợi cho một tầng lớp trong xã hội cho nên không phe phái nào
muốn bị thiệt thòi do nhà nước giảm chi. Kết quả ở Mỹ chính quyền dù Dân Chủ
hay Cộng Hòa thì ngân sách lúc nào cũng tăng và nợ công theo đó nhảy vọt. Cho nên
cố Tổng Thống Ronald Reagan cho rằng có 9 chử đáng sợ nhất trong Anh Ngữ là
“I’m from the government and I’m here to help”, nếu dịch theo ý là dân chúng đừng
có lo để nhà nước no.
Nợ công tăng tức nhà nước sớm hay muộn phải tăng thuế hoặc
giảm chi đẻ trả nợ - nghĩa là con cháu phải trả khoảng nợ cha mẹ ăn xài hoang
phí. Nợ công tăng khiến lãi xuất tăng (chính quyền phải tăng phân lời khi mượn
nợ) khiến tư nhân khó vay mượn vốn đầu tư, tức là chi tiêu công bóp nghẹt khu vực
tư nhân.
Ngược lại gần đây có thêm lý thuyết Tân Tiền Tệ (Modern
Monetary Theory) với cách nhìn rất lý thú rằng Hoa Kỳ nên mượn thêm rất nhiều nợ
so với hiện thời. Lý do khi một nước vay nợ bằng tiền của chính mình (Mỹ, Nhật,
Anh) nhưng ngày nào còn có người chịu cho mượn tiền với phân lời thấp…tại sao
không vay mượn càng nhiều càng tốt để đầu tư vào hạ tầng và tạo ra công ăn việc
làm trong nước? Nói cách khác, nếu in tiền trả nợ mà vẫn có người tiếp tục cho
vay…dại gì không mượn nợ! Giới hạn duy
nhất là khi người cho vay bắt đầu “chê” USD - khiến lạm phát vì đô la mất giá,
nhưng cho đến nay chẳng ai “chê” USD (lạm phát thấp và phân lời cực rẻ) thì chính
quyền Mỹ cần vay mượn thêm rất nhiều để chống cự độc vật Vũ Hán.
Xin nhấn mạnh là quan điểm này không áp dụng cho những nước
vay mượn nợ bằng USD như Việt Nam, hay khu vực EU vì Pháp, Ý, v.v… không thể tự
mình in ra đồng tiền chung Euro. Nhưng đây là đề tài trong dịp khác.
Trước hết xin nhắc lại ý chính của bài 19: trong quản lý
kinh tế nhà nước Hoa Kỳ nói chung bao gồm Tổng Thống và Quốc Hội (do dân bầu) và
Ngân Hàng Trung Ương (NHTƯ tức một cơ quan hành chánh độc lập không do dân bầu).
NHTƯ Hoa Kỳ điều chỉnh nền kinh tế phát triển “nóng” hay “nguội” qua lãi xuất và
lượng tiền USD lưu hành trên thị trường, trong khi Tổng Thống và Quốc Hội điều
hành nền kinh tế bằng thuế má và ngân sách. Bài 19 đã tìm hiểu về NHTƯ, bài 20
này sẽ phân tích chi tiêu của chính quyền (bao gồm Hành Pháp và Lập Pháp) trong
khủng hoảng.
Trong mỗi quốc gia đều có chi tiêu công (public spending) và
tư (private spending). Tiền có chi ra thì mới tạo công ăn việc làm nhằm cung cấp
sản phẩm và dịch vụ, qua đó giúp kinh tế phát triển. Chi tiêu bao gồm mua sắm
(nhà cửa, áo quần, hãng xưởng…), đầu tư công (giáo dục, y tế, đường xá, điện nước…)
và đầu tư tư nhân (mở nhà máy, tiệm tùng, mua trang thiết bị mới…) Chi tiêu có
thể hiệu quả (đầu tư tốt chuẩn bị cho tương lai) hay bị thất thoát (tham nhủng)
hoặc lãng phí (cờ bạc, các công trình vô dụng). Vì khả năng chi tiêu trong mỗi
quốc gia đều có hạn nên một khi chi tiêu công quá nhiều sẽ đè bẹp chi tiêu tư.
Ngược lại nếu buôn bán yếu kém sẽ khiến doanh nghiệp và tư
nhân co cụm không dám đầu tư tiêu xài. Khi đó nhà nước phải đắp bù vào khoảng
trống chi tiêu nhằm tạo ra mức cầu tối thiểu làm nền chống đỡ nền kinh tế không
cho sụp đổ, bằng không đất nước sẽ rơi vào vòng xoáy suy thoái (kinh tế yếu kém
đi khiến dân chúng không dám tiêu xài; dân chúng không dám chi tiêu khiến buôn
bán càng thêm ế ẩm). Khi kinh tế tuột dốc tiền thuế thu vào giảm mạnh trong khi
chi tiêu công nhảy vọt nên chính quyền không khỏi lạm chi (deficit) trừ trường
hợp có khoảng dự trữ lớn. Phải đợi đến lúc kinh tế phục hồi và chi tiêu tư tăng
trở lại thì nhà nước mới giảm chi tiêu công để cân bằng ngân sách và trang trải
nợ công.
Chi tiêu công chia ra làm hai phần: quy định
(non-discretionary spending) và tùy tiện (discretionary spending). Các khoảng
chi tiêu công được quy định bao gồm an sinh xã hội và trợ cấp thất nghiệp - kinh
tế suy thoái, công nhân mất việc thì quỹ thất nghiệp tự động tăng nhảy vọt giúp
cho người mất việc có phương tiện sinh sống. Giả sử kinh tế được ví như chiếc
xe đò đang chạy bon bon nhưng thỉnh thoảng sụp ổ gà (rơi vào khủng hoảng) thì các
khoảng chi tiêu được quy định là ống nhún (shock absorber, hay còn gọi là automatic
stabilizer) bảo vệ sườn xe không bị gãy.
Các khoảng chi tiêu tùy tiện do Tổng Thống và Quốc Hội thương
lượng hàng năm tăng giảm bao gồm ngân sách quốc phòng, y tế, giáo dục, trợ cấp
xã hội, đầu tư hạ tầng, v.v… Trong trường hợp khẩn cấp như ôn dịch Vũ Hán Tổng
Thống và Quốc Hội Hoa Kỳ nhanh chóng thông qua gói cứu trợ khổng lồ 2.2 ngàn tỷ
USD giúp đỡ doanh nghiệp và các hộ gia đình có tiền sinh sống trong giai đoạn kinh
tế đóng băng. Trong tương lai là các chương trình đầu tư hạ tầng khổng lồ khác
nhằm tạo công ăn việc làm cho những người mất việc; hay tăng ngân sách y tế cho
những người không có bảo hiểm; và…tăng thuế để bù đắp các khoảng lạm chi.
Ngoài trừ các gói cứu trợ khẩn cấp thì những khoảng chi tiêu
tùy tiện còn lại mất rất nhiều thời giờ thương lượng và tranh cãi. Đảng Dân Chủ
đòi tăng thuế để mở rộng vai trò của nhà nước. Đảng Cộng Hòa đòi chính quyền cắt
giảm các khoảng chi tiêu không cần thiết thay vì tăng thuế. Kết quả của các cuộc
thương lượng thường là vừa tăng thuế vừa tăng chi (!) cho vừa lòng đôi bên. Chính
vì lý do này nên vai trò của NHTƯ Hoa Kỳ trở nên quan trọng: NHTƯ quyết định độc
lập và nhanh chóng nên tiền từ NHTƯ tức thời tuôn vào thị trường, trong khi ngân
sách từ những khoảng chi tiêu tùy tiện của chính quyền hứa thì nhiều nhưng chờ
hoài không thấy. Bù lại tiền của NHTƯ chạy sang các ngân hàng và đại công ty (tức
thị trường tài chánh) trước khi đến dân chúng nên giúp doanh nghiệp và nhà giàu
hưởng phần lợi lớn (giá nhà và chứng khoáng tăng nhanh hơn lương bổng và công ăn
việc làm) so với công nhân. Để so sánh thì các chi tiêu tùy tiện như đầu tư hạ
tầng một khi thông qua sẽ tạo công ăn việc làm và sản phẩm (đường xá, Internet)
có lợi lâu dài cho đất nước.
Trên nguyên tắc khi kinh tế suy thoái, thuế thu vào sụt giảm
nhưng nhà nước cần lạm chi bù đắp khoảng trống chi tiêu thì nợ công sẽ tăng. Ngược
lại khi kinh tế phát triển, thuế thu vào tăng thì nhà nước cần giảm bớt chi tiêu
để không dành vốn với khu vực tư nhân, đồng thời trả bớt nợ công. Tuy nhiên
trong thực tế một khi nhà nước đã phình to ra rất khó thu nhỏ lại. Mọi khoảng
chi tiêu công đều có lợi cho một tầng lớp trong xã hội cho nên không phe phái nào
muốn bị thiệt thòi do nhà nước giảm chi. Kết quả ở Mỹ chính quyền dù Dân Chủ
hay Cộng Hòa thì ngân sách lúc nào cũng tăng và nợ công theo đó nhảy vọt. Cho nên
cố Tổng Thống Ronald Reagan cho rằng có 9 chử đáng sợ nhất trong Anh Ngữ là
“I’m from the government and I’m here to help”, nếu dịch theo ý là dân chúng đừng
có lo để nhà nước no.
Nợ công tăng tức nhà nước sớm hay muộn phải tăng thuế hoặc
giảm chi đẻ trả nợ - nghĩa là con cháu phải trả khoảng nợ cha mẹ ăn xài hoang
phí. Nợ công tăng khiến lãi xuất tăng (chính quyền phải tăng phân lời khi mượn
nợ) khiến tư nhân khó vay mượn vốn đầu tư, tức là chi tiêu công bóp nghẹt khu vực
tư nhân.
Ngược lại gần đây có thêm lý thuyết Tân Tiền Tệ (Modern
Monetary Theory) với cách nhìn rất lý thú rằng Hoa Kỳ nên mượn thêm rất nhiều nợ
so với hiện thời. Lý do khi một nước vay nợ bằng tiền của chính mình (Mỹ, Nhật,
Anh) nhưng ngày nào còn có người chịu cho mượn tiền với phân lời thấp…tại sao
không vay mượn càng nhiều càng tốt để đầu tư vào hạ tầng và tạo ra công ăn việc
làm trong nước? Nói cách khác, nếu in tiền trả nợ mà vẫn có người tiếp tục cho
vay…dại gì không mượn nợ! Giới hạn duy
nhất là khi người cho vay bắt đầu “chê” USD - khiến lạm phát vì đô la mất giá,
nhưng cho đến nay chẳng ai “chê” USD (lạm phát thấp và phân lời cực rẻ) thì chính
quyền Mỹ cần vay mượn thêm rất nhiều để chống cự độc vật Vũ Hán.
Xin nhấn mạnh là quan điểm này không áp dụng cho những nước
vay mượn nợ bằng USD như Việt Nam, hay khu vực EU vì Pháp, Ý, v.v… không thể tự
mình in ra đồng tiền chung Euro. Nhưng đây là đề tài trong dịp khác.
No comments:
Post a Comment