Nước
Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Putin tổng cọng
cho đến nay đã 11 năm và trải qua ba lần khủng hoảng ở
các vùng đất thuộc khu vực Cận Nga: cuộc chiến đòi
ly khai của Chechnya, nhưng bị dập tắt vào năm 1999-2000;
quân đội Nga tấn công vào Georgia để hổ trợ cho cánh
thân Mạc Tư Khoa năm 2008; gần đây nhất là khi ông Putin
dùng áp lực kinh tế và năng lượng để ngăn chận tiến
trình của Ukraine sát nhập vào khối Âu Châu, dẫn đến
cuộc cách mạng lật đổ Tổng Thống Viktor
F. Yanukovych
vốn có lập trường thân Nga trong tuần vừa qua.
Mỗi
cuộc khủng hoảng đều mang nét đặc thù về xã hội,
tôn giáo, chủng tộc cũng như nhắm vào những mục tiêu
khác nhau, nhưng dù vậy chúng ta vẫn ghi nhận được một
điểm chung: trong khi Tổng Thống Putin muốn phục hồi ảnh
hưởng của nước Nga nơi các khu vực lân cận, thì ngay
trong những vùng đất này nảy sinh ra các phong trào đối
kháng đòi ly khai, hay ít nhất là một thành phần dân
chúng không nhỏ cương quyết chống lại việc tái xây
dựng một khối các quốc gia giống như Liên Bang Xô Viết
của thế kỷ 20. Ba khuynh hướng chính trị xuất hiện
tạo nên các tranh chấp: cánh thân Tây Phương (như trường
hợp của Georgia và Ukraine), khuynh hướng Hồi Giáo (tại
Chechnya và nhiều nước Trung Á), và cánh thân Nga do những
quan hệ chủng tộc và số người gốc Nga sinh sống trong
các khu vực nói trên.
Nói
một cách khác, các vùng đất phiên bang và những quốc
gia láng giềng đều không muốn thấy Mạc Tư Khoa phục
hồi thế lực Đại Nga. Điều này chẳng khác gì với
Trung Quốc, nơi mà các lãnh thổ Tây Tạng – Tứ Xuyên –
Tân Cương và những nước lận cận như Nhật Bản, Việt
Nam, Phi Luật Tân đều phản ứng khi Bắc Kinh bành
trướng giấc mộng Đại Hán.
Có
nhiều lý do nhưng được tóm gọn vào hai nguyên nhân
chính: trải qua các lần bị lệ thuộc những nước nhỏ
đều bị các đại cường láng giềng khổng lồ ức
hiếp, đàn áp và bóc lột nên trong tâm lý dân tộc đã
hun đúc sức đề kháng bền bỉ; hơn nửa, quan điểm gọi
là khu vực ảnh hưởng truyền thống không còn đủ hấp
dẫn khi các dân tộc ngày nay có thể hấp thụ từ mọi
nền văn minh trên khắp thế giới thay vì lệ thuộc tinh
thần vào những anh khổng lồ lân cận.
Chẳng
hạn, các nước xung quanh trước kia xem Nga như trung tâm
của nền văn minh Chính Thống Giáo; Trung Quốc là cái nôi
của nền văn minh Khổng Giáo. Nhưng nay cả hai quốc gia
này ngày nay đều không còn là mô hình văn hoá thu hút
được xứ nào khác noi theo: chủ nghĩa Mác Xít bị phá
sản; xã hội độc tài, bất công; tình trạng tham nhũng
lan tràn và khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn; tài
nguyên môi trường trong nước bị phung phí huỹ hoại.
Trong khi đó nền ngoại giao của Nga và Trung Quốc nhắm
vào hai mục tiêu rất rõ ràng, là ngăn chận ảnh hưởng
của phương Tây để bành trướng thế lực của chính
mình mà lại không đếm xỉa gì để đóng góp cho giá
trị tinh thần của nhân loại.
Nga
dùng sức mạnh năng lượng, Trung Quốc dùng mậu dịch để
hàng phục các nước láng giềng. Cả hai lại xây dựng
bộ máy quân sự ngày càng hùng mạnh nhằm đe doạ lân
bang. Tuy vậy bài học bất ngờ nhất là khi Tổng Thống
Putin hứa hẹn viện trợ 15 tỷ USD và giảm giá khí đốt
1/3 nhưng vẫn không mua chuộc được người dân Ukraine để
dập tắt tâm lý bài Nga. Tiền không mua được thiện cảm
thì sức mạnh quân sự cũng sẽ không khuất phục được
lòng người.
Nga
và Trung Quốc là hai nước lớn và họ có thể trở thành
những đầu tàu cho sự phát triển và ổn định của thế
giới. Tây Phương và các quốc gia láng giềng nhất thiết
phải chấp nhận đây là những cường quốc với quyền
lợi lớn trong khu vực. Nhưng đáng tiếc là các nhà lãnh
đạo ở Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh đã không học bài học
của quá khứ, vào thế kỷ 20 họ khai thác chủ nghĩa
Mác-Xít nhưng nay đã lổi thời, nên đến thế kỷ thứ
21 họ lại khơi động tâm lý Đại Quốc cũng như vực
dậy chiêu bài về nền an ninh cốt lõi trong khu vực ảnh
hưởng truyền thống nhằm khuất phục các lân bang.
Nơi
nào có áp bức, nơi đó sẽ có đối kháng.
No comments:
Post a Comment