Chuyến công du của Tổng
Thống Nga Vladimir Putin sang Trung Quốc vào tháng 5-2014 có thể được ví với
việc Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon sang Bắc Kinh vào năm 1972 – cả hai lần
đều nhằm một mục đích tạo ra thế chân vạc mới trên bàn cờ quốc tế. Nhưng trái
với cuối thế kỷ thứ 20 khi Mỹ muốn bắt tay với Trung Quốc để ngăn chặn sự bành
trướng của Liên Xô thì nay Nga lại tìm hậu thuẫn với Hoa Lục nhằm tranh giành
với thế lực từ Tây Phương.
Năm 1972 Hoa Kỳ bị sa lầy tại Việt Nam; năm 2014 Nga bị cô
lập vì xâm chiếm Crimea. Không rõ do sắp xếp thế nào mà các nhà lãnh đạo của
hai cường quốc này vốn đang gặp khó khăn lại phải đến Trung Quốc để tìm thế
liên minh – cho dù Hoa Lục không phải là nước mạnh nhất, nhưng vẫn tạo cho Bắc
Kinh thế thượng phong trước khi các cuộc thương thuyết bắt đầu. Mục tiêu đầu
tiên của Hoa Lục là theo phương châm của Gia Cát Khổng Minh dưới thời Tam Quốc
Chí “Bắc cự Tào Tháo, Đông hoà Tôn Quyền” để lực lượng tránh không bị phân tán
phải đối phó với đối phương từ hai phía khác nhau. Kế tiếp Bắc Kinh đòi hỏi
nhiều hợp tác thuận lợi cho sự tăng trưởng của Trung Quốc: trước đây Mỹ mở cánh
cửa đầu tư và trao đổi công nghệ, nay Nga tăng cường cung cấp năng lượng và
kỹthuật quốc phòng.
Tuy không hài lòng với hoàn cảnh hiện thời do Hoa Kỳ nắm
thế thượng phong nhưng cả hai nước Nga-Trung đều thận trọng để không phá vỡ
trật tự thế giới. Bằng chứng là Moskva không dùng đến quân đội chính quy mà chỉ
tung ra các toán lính đặc biệt che mặt và không mang quân hiệu khi khuấy động
vùng Crimea, còn Bắc Kinh xử dụng rồng phung nước thay vì súng đạn đế bảo vệ
dàn khoang dựng lên trái phép trong lãnh hải Việt Nam. Bởi một khi súng đạn nổ
ra giữa hai quân đội sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy nghiêm trọng làm gián đoạn giao
dịch thương mại và quan hệ chính trị toàn cầu mà cả Bắc Kinh lẫn Moskva vẫn
chưa lường trước được. Hơn nửa những đối tượng bị nhắm đến tức Ukraine và Việt
Nam đều lẻ loi với hệ thống chính trị và kinh tế lệ thuộc nặng nề vào hai nước
láng giềng khổng lồ mà lại không có liên minh quân sự với NATO hay Hoa Kỳ che
chở, cho nên là những mục tiêu tốt để doạ nạt, phá hoại và xâm chiếm mà chưa
cần đến sức mạnh quân sự.
Cho đến nay cả Nga và Trung Quốc chỉ cho thấy ý đồ bành
trướng khu vực để dành lại các quyền lợi “truyền thống” hay “lịch sử”, tức là
khuất phục những quốc gia lân bang biến thành chư hầu. Tuy nhiên quá khứ cho
thấy một khi cán cân lực lượng thay đổi thì tham vọng cũng tăng thêm và khi đó
sẽ trở thành mối đe dọa trực tiếp cho toàn bộ khối các nước dân chủ.
Dù vậy Tây Phương vẫn chưa tìm ra biện pháp đáp trả
hữu hiệu đối với các hình thức tiến công phi quy ước (unconventional). Từ lính
bịt mặt xuất hiện ở vùng cận Nga cho đến tàu hải giám Trung Quốc phun vòi rồng
ở biển Đông, các sự kiện tuy nghiêm trọng nhưng không đủ để vận động dư luận
tại các nước dân chủ hậu thuẫn những biện pháp trả đũa cứng rắn. Riêng tại Hoa
Kỳ dân chúng đã mỏi mệt với hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan; Mỹ lại can dự
quá vào nhiều các tranh chấp không có đoạn kết như Bắc Hàn, Iran, và phong trào
Hồi Giáo cực đoan. Lo ngại lớn nhất của Hoa Kỳ là bị lôi kéo vào một cuộc chiến
dai dẳng khác trong lúc dư luận quốc nội chưa thống nhất còn các nước đồng minh
lại thiếu quyết tâm nên dễ bị chia rẽ vì quyền lợi.
Trở lại chuyến công du của Putin sang Bắc Kinh: theo bài
học của thập niên 70 thì sau khi Trung Quốc hoà hoãn với Hoa Kỳ họ đã tấn công
“dạy cho Việt Nam một bài học”. Liên Xô không dám trả đủa bảo vệ cho nước đàn
em nên bị Đặng Tiểu Bình chế nhạo là “có gan sờ đuôi cọp mới biết cọp giấy”. Từ
đó Hoa Lục tập trung vào canh tân đất nước, không còn xem Liên Xô như hiểm hoạ
từ phương Bắc.
Câu hỏi đặt ra rằng Trung Quốc có tấn công Việt Nam hay
không sau khi đã bắt tay với Putin? Có lẽ chưa đến lúc bởi vì Bắc Kinh còn
nhiều phương thức khác để phá hoại nền kinh tế và khích động căm phẫn của dân
chúng đối với nhà cầm quyền nhằm lung lạc tinh thần đoàn kết và ý chí đề kháng.
Nhưng một khi Việt Nam chứng tỏ quyết tâm, chẳng hạn tìm kiếm liên minh quân sự
với Hoa Kỳ thì sẽ là cơ hội để Hoa Lục tấn công để “nắn gân” Mỹ có đủ ý chí để
can thiệp vào vùng sân nhà của Trung Quốc hay không? Phản ứng của Hoa Kỳ trái
lại tuỳ thuộc vào thái độ của Việt Nam khi đó có dứt khoát thực hiện dân chủ và
đoàn kết để bảo vệ bờ cõi thì họ mới có thể vận động dư luận quần chúng nhằm
can thiệp tận tình, còn trái lại nếu vẫn tiếp tục mập mờ đu dây thì họ sẽ khai
thác mối bất hoà đủ để làm hao mòn tiềm lực của hai nước Việt-Trung mà không
cần tham dự quá sâu.
Một trường hợp khác mà Hoa Kỳ và Phi đang dự phòng là sau
vụ dàn khoang HQ 891 Bắc Kinh sẽ thách thức thế nào với Philippines vốn
là nước có hiệp ước phòng thủ với Mỹ? Trung Quốc biết cam kết của Mỹ đối với
Phi nhẹ hơn rất nhiều so với Nhật nên đây là mắt xích yếu kế tiếp để bẻ gãy. Dù
khả năng Hoa Kỳ can thiệp về quân sự sẽ rất ít trừ phi sự cố bộc phát ngoài dự
đoán, nhưng Mỹ và Nhật sẽ gấp rút yểm trợ cho Philippines chuẩn bị cho
các cuộc đụng độ lớn hơn về sau này.
Câu hỏi đặt ra là khi đó Bắc Kinh sẽ áp lực Hà Nội im
tiếng để đổi lấy một số nhượng bộ nhỏ nhằm phá vỡ thế liên minh Việt-Phi. Dân
Phi đã biểu tình ủng hộ khi Việt Nam bị Trung Quốc xâm lăng, liệu người Việt
Nam có sẽ đáp đền ân tình khi nước bạn bị đe doạ hay không?
No comments:
Post a Comment