Một khía cạnh ít được nhắc đến là toàn cảnh xã hội Hoa Kỳ vào
thập niên 70 trong khoảng thời gian trước và sau khi chiến tranh Việt Nam chấm
dứt. Đây là một trong những giai đoạn khó khăn nhất cho nước Mỹ kể từ sau thế
chiến thứ hai, các áp lực về kinh tế - xã hội - ngoại giao đè nặng và góp phần
không nhỏ vào quyết định bỏ rơi miền Nam.
Sau khi Tổng Thống John F. Kennedy bị ám sát vào năm 1963, vị
Tổng Thống kế nhiệm Lyndon Johnson theo đuổi ba chính sách lớn vô cùng tốn kém:
tiếp tục can thiệp vào Việt Nam, đẩy mạnh chương trình thám hiểm không gian và thúc
đẩy trợ cấp xã hội với chương trình The Great Society nhằm xoá bỏ nạn nghèo đói
và kỳ thị chủng tộc. Nhà nước tiêu xài quá mức khiến ngân sách thâm thủng nặng
nề và nền kinh tế suy thoái trầm trọng. Đồng bạc lúc đó còn neo vào đơn vị vàng
cho nên chính quyền không thể in thêm tiền như hiện giờ, đô-la trở thành khan
hiếm do nợ công hút cạn nguồn tài chánh khiến doanh nghiệp trong nước phải vay
mượn với lãi xuất rất cao. Hoa Kỳ không cạnh tranh được với hai nước đang trổi
dậy gồm Tây Đức và Nhật, cho nên vào năm 1971 Tổng Thống Richard M. Nixon mới quyết
định thả nổi đô-la chấm dứt việc buột vào vàng để Ngân Hàng Nhà Nước rộng tay
in bạc bơm vào thị trường.
Năm 1973 xảy ra cuộc chiến 20 ngày ở Trung Đông, khối Ả Rập
phong tỏa dầu hỏa khiến giá nhiên liệu tại Mỹ tăng vọt gấp 4 lần, dân chúng xếp
hàng nửa ngày để mua xăng. Thị trường chứng khoáng tuột dốc 40%, lạm phát tăng
nhảy vọt 8.8%, tiền lời ngân hàng sau đó có nơi đến 20% - đây không phải là những
con số thống kê trừu tượng vì độc giả ngày nay có thể mường tượng ảnh hưởng đè
nặng lên công ăn việc làm, tiền tiết kiệm, quỹ hưu trí như thế nào.
Bên cạnh đó phong trào chống chiến tranh ngày càng lan rộng
kể từ sau biến cố Tết Mậu Thân 1968 khiến xã hội bị rạn nứt. Tâm lý nổi loạn từ
bất bạo động như Hippies, Peace and Love, Woodstock cho đến bạo động như Black
Panther lan rộng trong giới trẻ và người da đen. Tháng 4 năm 1968 lãnh tụ đấu tranh
chống kỳ thị Martin Luther King bị ám sát. Tháng 8 năm 1974 Tổng Thống Nixon bắt
buột phải từ chức để tránh không bị xét xử vì tội gian lận bầu cử. Từ sau Thế
Chiến Thứ Hai cho đến nay có lẻ đây là một trong những giai đoạn tăm tối nhất của
nước Mỹ.
Trở sang Trung Đông nước Do Thái suýt bị thua trận trong những
ngày đầu của cuộc chiến 1973 nếu Mỹ không viện trợ ồ ạt về quân sự, cọng thêm tài
ngoại giao con thoi của Tiến Sĩ Kissinger. Sau chiến tranh với bài học nguy cơ
sống còn bị đe dọa nên khối người Mỹ gốc Do Thái nắm trọng trách trong chính
quyền cùng chính giới hành lang đã vận động để Do Thái nằm vào một trong ba mũi
nhọn chiến lược: cô lập Liên Xô bằng cách liên minh với Trung Quốc; phục hồi
kinh tế; và “chuyển trục” từ Đông Nam Á sang Trung Đông. Trong khi đó miền Nam Việt
Nam chỉ có rất ít người ủng hộ trong chính giới Hoa Kỳ.
Tổng Thống Gerald Ford bị Quốc Hội bó tay nên bỏ rơi miền
Nam vào năm 1975. Nhưng nhờ vào đức tính liêm khiết ông đã hàn gắn phần nào xã
hội Hoa Kỳ vốn bị xâu xé vì chiến tranh Việt Nam và do việc truất phế Tổng
Thống Richard Nixon. Tuy nhiên hệ lụy của đầu thập niên 1970 còn kéo dài: do chính
sách ủng hộ Do Thái khiến Hồi Giáo bảo thủ nổi lên lật đổ chính quyền thân Hoa
Kỳ tại Iran bắt giữ 52 con tin và dẫn đến cuộc khủng hoảng dầu lửa lần thứ hai
năm 1979; lạm phát tăng vọt lên 14% năm 1981; Liên Xô thấy Hoa Kỳ suy thoái nên
xâm lăng Afghanistan vào năm 1979.
Chính trong những ngày tháng bi quan nhất Hoa Kỳ dã phục hồi
nhờ vào chính sách chống lạm phát hữu hiệu của Thống Đốc Ngân Hàng Paul Vocker,
hình ảnh tự tin và lạc quan của Tổng Thống Ronald Reagan và di sản ngoại giao
chân vạc của cựu Tổng Thống Richard Nixon. Liên Xô sa lầy tại Afghanistan trong
khi nền kinh tế chỉ huy trở thành gánh nặng đè lên khối Cộng Sản, dẫn đến sự sụp
đổ của bức màn sắt và chấm dứt Chiến Tranh Lạnh vào năm 1991. Kết quả của chương
trình thám hiểm không gian mang phi thuyền Apollo đáp xuống mặt trăng cùng vô số
những tiến bộ khoa khọc khác. Các chương trình xã hội và phong trào phản kháng dân
sự đã mở rộng nhiều cánh cửa cho phụ nữ và người thiểu số, ảnh hưởng trực tiếp đến
những người tỵ nạn Việt Nam khi đến Mỹ được hưởng nhiều trợ cấp xã hội và con cái
vào được những đại học lớn là điều khó xảy ra vào những năm 60 và đầu 70.
Người xưa nói ôn cố tri tân, nhưng người viết lại dùng câu
chuyện ngày nay để hiểu về nước Mỹ ngày trước. Hoa Kỳ trong thập niên 70 phần nào
giống nước Mỹ vào những năm 2006-08 khi tình hình Iraq suy đồi thảm hại cọng thêm
cuộc Đại Suy Trầm. Dân chúng Mỹ - và không ít người Mỹ gốc Việt - đã ủng hộ Tổng
Thống George Bush khi ông lật đổ nhà độc tài Saddam Hussein năm 2003, nhưng sau
này đổi ý chống chiến tranh để chấm dứt tình trạng sa lầy tại Iraq; người Mỹ bất
mãn vì nhà nước Iraq chia rẻ bè phái tham nhũng mục nát, còn quân đội đào thoát
hàng loạt bỏ theo bao nhiêu trang bị vũ khí tối tân chỉ 4 năm sau khi đồng minh
rút quân. Sau cuộc khủng hoảng tài chánh 2008 Hoa Kỳ phải đặt ưu tiên chấn chỉnh
nền kinh tế. Ngày nay Hoa Kỳ bớt lệ thuộc vào dầu hoả nhập cảng và cũng không
thể trực tiếp tham dự vào những cuộc nội chiến triền miên ở Trung Đông thì chính
sách “chuyển trục”, nhưng lần này từ Tây sang Đông, là cần thiết để bảo đảm an
ninh cho khu vực kinh tế phát triễn nhanh nhất thế giới – nhưng vẫn có các thế
lực khổng lồ như Do Thái, Saudi Arabia và cánh vận động hành lang cho Trung
Quốc không muốn thấy Hoa Kỳ tái định vị.
Con tạo xoay vần. Người dân nước lớn như Hoa Kỳ hay nước nhỏ
như Do Thái đã thay đổi vận mệnh nước họ. Lãnh đạo Trung Quốc xoay chiều lịch sử
bằng cách bắt tay với Tây Phương nhằm hiện đại hoá đất nước, nhưng dân Nga và
Hoa Lục vẫn chưa quyết định được tương lai. Người Việt, Iraq, Syria, v.v…. là
con bài của nước lớn cho đến khi chính quyền và dân chúng quyết nắm lấy vận mệnh
của chính mình.
No comments:
Post a Comment