Khoảng cách giàu nghèo ở Tây Phương hiện gây ra những cơn chấn
động về chính trị nhưng thiết tưởng cần nhận biết chính xác triệu chứng nằm ở đâu
rồi sau đó mới đi tìm nguyên do và phương thuốc giải quyết. Tuy hai ứng cử viên
dẫn đầu trong cuộc bầu cử Tổng Thống 2020 là ông Bernie Sander và bà Elizabeth
Warren cáo buột thành phần 1% chóp bu trong xã hội tóm gọn phần lớn tài sản trong
nước nhưng đây là kiểu nhìn Mác-Xít hô hào giai cấp thợ thuyền đấu tranh chống
giới chủ nhân, nông cạn mang đầy tính khích động quần chúng nên đã dẫn đến những
chủ trương sai lầm như dùng sưu cao thuế nặng để trừng phạt và triệt hạ giới tỷ
phú.
Trước hết phải thấy rằng tài sản được phân phối rất khác
nhau giữa các nước Âu-Mỹ và những quốc gia đang mở mang. Bài viết này không rập
theo khuông mẫu dùng trong kinh tế học mà dùng hình ảnh bình dân cho dễ hiểu:
-
Tại Việt Nam và Trung Quốc giàu nhất là các đại
gia, rồi đến giới trung lưu trí thức và sau cùng gồm đám đông quần chúng công và
nông dân. Thành phần lao động được xem thuộc diện nghèo.
-
Ở Hoa Kỳ trên cùng là con số 0.001% tỷ phú chóp
bu; rồi đến thành phần ưu tú (luật sư, bác sĩ, tài chánh, ngân hàng v.v…); giới
trung lưu trí thức (kỷ sư, thuế khoá, dịch vụ thương mại v.v…); sau đó là giới
trung lưu-công nhân; rồi mới đến dân nghèo (nông nghiệp chỉ dùng 1.3% lao động
tại Mỹ nên tạm thời không xếp hạng). Nhiều người nghèo nhiều không đi làm chỉ để
nhận trợ cấp xã hội, cho nên bài này chỉ quan tâm đến thành phần muốn và sẳn sàng
đi làm nhưng vẫn không đủ sống. Khủng hoảng chính trị xãy ra vì giai cấp trung
lưu là nồng cốt cho nền dân chủ nhưng giới trung lưu-công nhân bị hạ lương hay mất
việc do toàn cầu hóa và tự động hóa nên thụt xuống thứ hạng nghèo, và trong tương
lai không xa khi một số ngành nghề trung lưu trí thức cũng sẽ bị đe dọa bởi điện
toán hóa và trí tuệ nhân tạo.
Như vậy tại Việt Nam và Trung Quốc người lao động
tranh đấu để tiến lên đời sống trung lưu. Riêng ở Hoa Lục 800 triệu người đã vượt
ra khỏi ngưỡng cửa nghèo khó chỉ trong vòng 40 năm, con số còn lại tuy biết bị
bóc lột nhưng vẫn sẵn sàng làm việc 12-14 tiếng mỗi ngày để bắt kịp. Nền kinh tế
của các nước đang phát triển tăng trưởng giống như đoàn xe chạy lên đèo, tuy xe
đầu vọt nhanh hơn xe cuối nhưng tất cả đều lên dốc. Trái lại ở Mỹ, Anh, Pháp giới
trung lưu công nhân phật phòng lo sợ rơi xuống cảnh nghèo khi lương bổng và mức
sống của họ chẳng những không tăng mà còn thụt lùi so với lạm phát. GDP của Hoa
Kỳ tiến mạnh nhưng giống như chuyến tàu hỏa bị đứt mốc xích ở giữa nên hai toa đầu
còn vọt lên nhanh hơn lúc trước trong khi các toa phía sau thụt lùi và bị bỏ rơi
ngày càng xa. Lèo lái hai khúc tàu không
nối liền nhau còn hiểm nghèo hơn kéo cả một đoàn xe cùng lên dốc rất nhiều!
Vào những thập niên 1950-1970 công nhân Mỹ tuy không có bằng
đại học nhưng làm việc trong các hảng Ford, GM, những nhà máy thép và than đá cũng
có thể mua sắm nhà và xe hơi. Họ có công ăn việc làm bền vững trọn đời, nhận bảo
hiểm sức khoẻ và khi về già sống bằng hưu bổng (pension) của công ty. Mọi người
đều dự phần khi kinh tế tăng trưởng. Nhiều nhà kinh tế cho rằng rằng lãnh vực sản
xuất (manufacturing) chính là cổ máy đưa những người tuy không cần học vấn cao
nhưng vẫn tiến lên đời sống trung lưu, nhận xét này quan trọng vì trung lưu là
nền tảng của dân chủ trong khi trong một nước không thể nào ai cũng có bằng đại
học.
Nhưng đến giai đoạn hậu công nghiệp thì nền kinh tế chuyển đổi
từ sản xuất (manufacturing) sang sáng tạo (innovation) và dịch vụ (services).
Giới chuyên gia hô hào tự do thương mại toàn cầu sẽ nâng cao mức sống của mọi tầng
lớp dân chúng một khi dây chuyền sáng tạo, sản xuất cho đến phân phối được hữu
hiệu hóa và phân công phù hợp theo lợi thế của từng quốc gia. Hảng xưởng Tây Phương
chạy theo toàn cầu hóa di dời từ Âu-Mỹ sang Đông Á nhằm khai thác nguồn nhân công
rẻ, các quy định môi trường và luật lao động lỏng lẻo. Kết quả khiến thành phần
trung lưu-công nhân ở Mỹ mất việc trở nên phẩn nộ cho rằng giới chủ nhân chỉ
lao theo lợi nhuận mà bán đứng người lao động, trong khi nhà nước khờ dại ký kết
vào các hiệp ước thương mại nhưng chỉ đem lại lợi ích bất tương xứng cho các nước
đang phát triễn thay vì bảo vệ quyền lợi dân chúng Hoa Kỳ. Họ cho rằng chính
quyền và giới thượng lưu đã gạt gẫm dân chúng khi rao bán rằng toàn cầu hóa
mang lợi đồng đều đến cho mọi người, nhưng rồi sau đó cấu kết lẫn nhau để xây dựng
một trật tự thương mại chỉ có lợi cho thành phần ưu tú mà thiệt hại cho giới
trung lưu (the system is rigged) nên nay đã đến lúc phải bị gạt bỏ (drain the
swamp) mà đặt quyền lợi của nước Mỹ trên hết (America First – dịch từ tiếng Anh
theo ngôn ngữ rất hìệu quả của Trump để thu hút cử tri lao động). Nếu chính phủ
Mỹ chấm dứt ưu đãi thuế má cho xí nghiệp đầu tư ra nước ngoài, đòi hỏi tiêu chuẩn
về lao động và môi trường đồng đều ở các quốc gia cạnh tranh, chống phá giá đồng
bạc, chống hàng rào thuế quan ngăn chận hàng mua từ Hoa Kỳ thì người công nhân ở
Mỹ sẽ tìm lại lợi thế so với các nước đang phát triễn.
Trở lại với khoảng cách giàu nghèo ở Mỹ thì người công nhân
mất việc không tìm ra mức lương tương đương trong các lãnh vực khác. Xã hội hậu
công nghiệp chú trọng về sáng tạo và dịch vụ: sáng tạo đòi hỏi bằng cấp và trình
độ kỷ thuật cao; lương bổng tốt chỉ có trong các dịch vụ chuyên môn như y tế, tài
chánh, thợ điện, thợ ống nước, v.v… còn làm việc trong nhà hàng, chợ búa hay lái
taxi chỉ là những công việc tạm bợ sống qua ngày với đồng lương tối thiểu chớ
không thể xem là có nghề nghiệp và tương lai vững chắc.
Người lao động với đồng lương thấp không đủ trả tiền nhà, bảo
hiểm y tế và giữ trẻ chớ đừng nói gì đến lo cho con cái lên đại học hay lúc tuổi
già, cho nên giới trung lưu-công nhân phẩn nộ vì không thấy lối thoát cho chính
họ và cho thế hệ tiếp nối. Tiền của trong xã hội không có chổ đầu tư vào lãnh vực
sản xuất nội địa nên đổ đồn vào khu vực địa ốc và chứng khoáng giúp cho các tỷ
phú, giới ưu tú và trung lưu trí thức trở nên giàu có hơn nhờ vào mua bán những
tài sản loại này. Cho nên khoảng cách giàu nghèo tăng vọt không phải chỉ so với
giới 0.001% tỷ phú chóp bu mà chính là giữa 20% phần trên 80% dân chúng còn lại.
Dân Mỹ không chống nhà giàu mà trái lại ngưỡng mộ các tỷ phú
như Bill Gates (Microsoft) hay Jeff Bezzo (Amazon) vốn đã xây dựng sự nghiệp khổng
lồ nhờ vào tài năng và trí óc. Thay vì trừng phạt nhà giàu thì nước Mỹ cần tạo
môi trường để phát triễn thêm nhiều nhân tài và tỷ phú loại này để khai phá những
lãnh vực mới, qua đó thúc đẩy kinh tế phát triển và tạo hàng triệu công ăn việc
làm với mức lương cao. Cần phải giảm thuế để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
trong nước nhưng bít các lổ hỏng để người giàu không trốn tránh thuế má.
Nhà nước phải có chương trình đầu tư khổng lồ về hạ tầng để
xử dụng nguồn nhân lực trong nước; cần lấp các lổ hổng trong những hiệp ước mậu
dịch; phải hổ trợ giáo dục chuyên ngành như y tá, thợ sửa xe, thợ điện, v.v… chớ
không thể hoàn toàn chú trọng vào bằng cấp 4 năm.
Tuy nhiên câu hỏi chính vẫn là trong giai đoạn hậu công nghiệp
tìm đâu ra một cổ máy kinh tế nhằm thay thế khu vực sản xuất để đưa đa số quần
chúng dù không có bằng đại học vẫn tiến vào được giai cấp trung lưu? Các chính
sách thuế má, đầu tư, giáo dục sẽ như thế nào để thúc đẩy sự hình thành và phát
triễn của cổ máy kinh tế này?
Đây sẽ là những vấn đề cho loạt bài sau.
No comments:
Post a Comment