Kinh tế gia gốc Á-châu Richard Koo trong quyển Mặt Trái của
Kinh Tế Vĩ Mô và Tương Lai của Toàn Cầu Hóa (The Other Half of Macroeconomics
and the Fate of Globalization) nhận xét rằng một nền kinh tế thường trải qua 3
giai đoạn trong quá trình phát triễn: tiền công nghiệp, công nghiệp và sau đó là…bị
rượt (pursued phase)! Những trường hợp tiêu biểu gồm Hoa Kỳ bị Nhật Bản đuổi
theo vào thập niên 1970-80, hay Trung Quốc hiện chạy đua với khối Tây Phương. Mỗi
giai đoạn trong tiến trình nói trên làm thay đổi mức cung cầu về lao động khiến
giới công nhân có thế mạnh hay yếu khi tranh đấu đòi tăng lương bổng và chia sẻ
thành quả kinh tế trong xã hội, theo đó hố sâu giàu nghèo sẽ tăng hay giảm.
Vào giai đoạn tiền công nghiệp dân chúng ở nông thôn đổ dồn
về thành phố để tìm công ăn việc làm trong các hảng xưởng như trường hợp Việt Nam và
Trung Quốc hiện thời hay Hoa Kỳ và Âu Châu ở cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Mức
cung lớn hơn cầu cho nên giới lao động ở vào thế yếu khi tranh đấu đòi tăng bổng
lộc, dù có biểu tình hay đình công thì lương bổng và các quyền lợi an sinh xã hội
(y tế, nhà ở, giáo dục con cái, hưu trí, v.v…) vẫn không được cải tiến xứng đáng
so với nhịp độ tăng trưởng của GDP. Do lương trả công nhân ít trong khi nhu cầu
về vốn đầu tư và đất đai đô thị nhảy vọt nên tài sản của giới chủ và thành phần
có nhà đất ở thành thị tăng nhanh so với thu nhập của người lao động, từ đó tạo
ra hố sâu giàu nghèo trong giai đoạn tiền công nghiệp.
Sau đó nền kinh tế tiến lên khúc quanh từ tiền công nghiệp
sang công nghiệp. Lượng người ở thôn quê và thành thị trở nên cân xứng cho nên
nhân lực dồn vào thành phố để tìm việc trong hảng xưởng giảm dần (móc điểm này còn
gọi là Lewis Turning Point hay LTP). Trung Quốc hiện đang ở khúc ngoặc LTP. Mức
cung ít lại nên giới lao động ở thế mạnh khi đòi tăng lương và bổng lộc (y tế, nhà
ở, giáo dục con cái, hưu bổng, môi trường, v.v…) để thành quả kinh tế được phân
phối đồng đều hơn giữa chủ và thợ. Khoảng cách giàu nghèo giảm bớt trong giai đoạn
công nghiệp như từng xảy ra tại Âu-Mỹ những năm 1950-70.
Giai đoạn công nghiệp cũng là lúc mà giới công nhân Tây Phương
tiến lên giai cấp trung lưu. Tại Hoa Kỳ vào thập niên 1950-1970 một công nhân
không có bằng đại học nhưng làm việc tại các hãng Ford, GM, v.v… vẫn được hưỡng
lương cao, việc làm bảo đảm trọn đời, tiền hưu trí, có bảo hiểm y tế và đủ khả
năng mua nhà và xe hơi. Do không thể nào trong một nước ai cũng có bằng đại học
cho nên nhiều kinh tế gia đã nhận xét rằng các cơ xưởng sản xuất
(manufacturing) chính là cổ máy đào tạo giai cấp trung lưu – công nhân, trong
khi giới trung lưu là nền móng của xã hội dân chủ.
Móc ngoặc từ tiền công nghiệp sang công nghiệp cũng chính là
lúc mà người dân ở Đài Loan và Nam Hàn tranh đấu thành công đòi dân chủ vào cuối
thế kỷ 20. So với các cuộc cách mạng khác trong cùng khoảng thời gian ở Phi Luật
Tân, Indonesia và Argentina thì nền dân chủ của Đài Loan và Nam Hàn vững chắc hơn
nhiều khi được hậu thuẩn bởi một tầng lớp trung lưu lớn mạnh thay vì chỉ đơn
thuần là các phong trào quần chúng bộc phát như tại các nước còn lại.
Nhưng nền kinh tế không dừng lại trong giai đoạn công nghiệp
mà theo nhịp độ toàn cầu hóa bị … rượt đuổi. Các quốc gia chậm tiến dựa vào mô
hình phát triển của những nước đi trước để chạy theo. Cơ xưởng sản xuất ở Tây
Phương di dời sang Đông Á để xử dụng nguồn nhân công rẻ (so với giá lao động
cao ở Âu-Mỹ) và luật lệ lỏng lẻo.
Không thể phủ nhận lợi ích vô cùng to lớn của toàn cầu hóa vốn
đã nâng cao sức tiêu thụ và đem hàng tỷ con người ra khỏi ngưỡng cửa nghèo khó
trên toàn thế giới. Toàn cầu hóa, trên lý thuyết, là sự tái phân phối dây chuyền
từ sáng tạo (innovation), bản vẽ (design), sản xuất (manufacturing), phân phối
(distribution) và tiêu dùng (consumption) cho phù hợp với lợi thế của từng quốc
gia nhằm hữu hiệu hóa nền kinh tế toàn cầu. Nhưng nếu chỉ tái phối trí trong phạm
vi của một quốc gia thì dân chúng ở những vùng bị mất việc sẽ di cư sang các địa
phương có công ăn việc làm mới và tốt hơn. Còn với toàn cầu hóa khi sản xuất di
dời sang các nước như Trung Quốc hay Việt Nam thì không thể nào một người công
nhân Âu-Mỹ theo đó dọn nhà qua Á Châu đi tìm việc!
Trở lại với các nước công nghiệp bị đuổi, trước đây là Hoa
Kỳ bị Nhật Bản rượt vào thập niên 70-80, rồi Nhật bị Nam Hàn – Đài Loan đuổi,
nay đến lúc Trung Quốc chạy đua với Âu-Mỹ-Nhật, Hoa Lục lại sẽ bị các nước Đông
Nam Á và Ấn Độ rượt. Điểm đáng nói là tình trạng đuổi rượt ngày càng gấp rút như
Việt Nam chưa hoàn thành công nghiệp hóa đã bị Bangladesh rượt trong các lãnh vực
may mặc và lắp ráp, nhưng đây sẽ là đề tài của một bài khác về cuộc chạy đua xuống
đáy vực – race to the bottom - lại cũng liên hệ đến hố sâu giàu nghèo nhưng ở các
nước đang mở mang.
Trong giai đoạn đuổi rượt hiện tại nhiều cơ xưởng sản xuất ở
các nước công nghiệp bị di dời sang những quốc gia đang mở mang. Nền dân chủ ở
Tây Phương đánh mất đi cổ máy sản xuất thành phần trung lưu – công nhân không có
bằng đại học. Mức cầu giảm nên giới lao động Âu-Mỹ nằm trong thế yếu khi đòi tăng
lương bổng hay để bảo vệ các bổng lộc trước đây như tiền hưu trí (pension). Gần
mất việc thì chẳng ai hó hé đòi tăng lương!
Trên lý thuyết xã hội hậu công nghiệp sẽ bù đắp những mất mát
bằng cách tạo ra công ăn việc làm mới trong các ngành nghề sáng tạo
(innovation), bảng vẽ (design) và dịch vụ (services) đồng thời kềm hãm lạm phát
nhờ vào hàng hóa giá rẻ nhập cảng từ những nước đang phát triển. Nhưng sáng tạo
và bảng vẽ đòi hỏi trình độ đại học (như ngành điện toán và kỷ thuật) nên giới
hạn trong thành phần ưu tú và trung lưu – trí thức; còn các dịch vụ có lương
cao như y tế và tài chánh lại cần trình độ chuyên môn, trong khi dịch vụ buôn bán
ở chợ búa như Walmart chỉ với đồng lương tối thiểu không đủ sống ngày qua ngày.
Cho nên thành phần trung lưu – công nhân bị thất nghiệp nhưng không tìm ra việc
làm mới với đồng lương tương xứng vì không có bằng đại học hay đã lớn tuổi không
thể nào trở lại trường học. Lương bổng của 80% dân chúng Tây Phương không tăng so
với lạm phát trong suốt 30 năm kể từ toàn cầu hóa.
Nhưng GDP ở Hoa Kỳ vẫn tăng - tức là thành quả kinh tế không
trải rộng mà chỉ tập trung vào thiểu số ưu tú. Trong số này có 0.01% là các tỷ
phú nhưng cũng bao gồm 19.99% những người thành đạt và giai cấp trung lưu – trí
thức. Không ít các gia đình người Mỹ gốc Việt và di dân từ Trung Quốc, Ấn Độ sống
tại các thành phố ở Cali, Texas, Washington State và DC, Massachusett nằm trong
diện ưu tú này (cho dù vẫn ăn phở, lái xe Toyota hay Lexus, có một vài căn nhà
nên dù không cảm thấy mình thiệt giàu nhưng vẫn nằm trong nhóm ưu tú của xã hội.)
Thành phần ưu tú và trung lưu – trí thức có tiền đầu tư vào địa
ốc, cổ phiếu và đại học cho con cái là những món giá cả tăng vọt trong thời đại
toàn cầu hóa. Trong khi đó giới trung lưu – công nhân thất nghiệp không tìm ra
việc làm vững chãi đủ để trả tiền giữ trẻ, nhà ở, y tế thì làm thế nào dành dụm
lo cho hưu trí và đại học cho con cái. Hố sâu giàu nghèo tạo ra hai đẳng cấp mà
thành phần bên dưới đánh mất chiếc cầu để vươn lên. Đẳng cấp là kẻ thù của nền
dân chủ và sức sống của hệ thống tư bản.
Người viết sẽ phân tích về một gạch nối giữa Thomas Piketty
(Bài 4) và Richard Koo (Bài 5) trong bài 6 để tiếp tục tìm hiểu về tình trạng mất
cân bằng trong kinh tế Âu-Mỹ. Bài 7 sẽ phân tích về khoảng cách giàu nghèo và
cuộc chay đua xuống đáy vực (race to the bottom) ở các nước đang phát triển như
Việt Nam.
Cám ơn tác giả đã cho mình được học hỏi nhiều!
ReplyDelete