Khoảng cách giàu nghèo tăng vọt không những ở Tây Phương mà
còn khắc nghiệt hơn nhiều tại các nước đang phát triễn. Hiện Trung Quốc có nhiều
tỷ phú hơn Hoa Kỳ trong khi nhiều tập đoàn
đại gia mọc lên nhanh chóng ở Ấn Độ, Việt Nam . Ngược lại đa số công nhân vẫn
còn sống chui rút trong các ổ chuột ở những thành phố lớn. Hai câu hỏi đặt ra là
(1) tại sao tại Á Châu không trổi dậy phong trào dân túy phản kháng như ở Âu-Mỹ,
và (2) liệu chênh lệch giàu nghèo trong các nước đang mở mang có sẽ thu hẹp dần
hay ngày càng thêm sâu rộng?
Trả lời đơn giản cho câu hỏi thứ nhất là người dân tại các nước
đang phát triển bị đàn áp nên không thể tập hợp thành phong trào chống đối mạnh
mẻ như ở Tây Phương. Nhưng bên cạnh góc nhìn tiêu cực đó còn có thêm một nguyên
nhân tích cực khác là toàn cầu hóa đã mang hàng tỷ dân chúng châu Á thoát ra khỏi
ngưỡng cửa nghèo khó. Riêng Trung Quốc chỉ trong vòng 30 năm đã đưa từ 500-800
triệu người tiến lên mực sống trung lưu với sức mua (purchasing power) ngang bằng
với Tây Phương. Tại Ấn Độ và Việt Nam điện nước, cầu cống, nhà lầu và điện thoại
cầm tay lan tràn đến tận thôn quê. Tuy xã hội còn nhiều bất cập nhưng gần 100% dân
chúng ở Đông và Nam Á (trừ Trung Đông) đạt đồng thuận rằng thương mại toàn cầu đã
cải thiện đời sống của họ từ 30 năm nay. Hố sâu giàu nghèo tuy tăng vọt nhưng đời
sống của mỗi gia đình vẫn được cải thiện. Ngược lại tại Âu-Mỹ khoảng 80% dân chúng
lại thấy mức sống của họ chẳng những không tăng mà còn giảm cũng chính trong 30
năm đó. Cho nên các cuộc phản kháng chống độc tài, tham nhũng, bất công ở Á Châu
rất khác biệt so với trào lưu dân túy chống toàn cầu hóa của Tây Phương.
Nhưng nếu giàu nghèo ngày thêm chênh lệch thì rồi xã hội nào
cũng sẽ rơi vào bế tắc. Câu hỏi thứ nhì là liệu khoảng cách giàu nghèo sẽ thu hẹp
dần hay ngày thêm sâu rộng ở các nước đang mở mang? Kinh tế gia Richard Koo rút
tỉa bài học Tây Phương nhận xét rằng khi con số lao động từ thôn quê ra thành
thị làm việc trong các nhà máy hảng xưởng giảm dần, tức là lượng công nhân ít đi
so với nhu cầu thuê mướn thì khi đó giới công nhân ở vào thế mạnh để đòi tăng lương
và bổng lộc. Khoảng cách giàu nghèo trong xã hội nhờ đó thu hẹp. Giai đoạn này
cũng chính là lúc mà nền dân chủ bắt nền móng vững chắc ở Âu-Mỹ-Nhật, và gần đây
nhất là tại Nam Hàn và Đài Loan nhờ đào tạo được thành phần trung lưu-công nhân
bên cạnh giới trung lưu-trí thức làm căn bản.
Trung Quốc hiện đang ở khúc ngoặc nói trên: con số lao động
từ thôn quê ra thành thị giảm dần nên công nhân Trung Quốc được tăng lương và nhà
cầm quyền cải thiện đời sống bằng cách nới lỏng chế độ hộ khẩu. Người lao động
nhờ vậy hưởng thêm các quyền lợi về bảo hiểm sức khỏe, lương hưu trí, trợ cấp
nhà ở và giáo dục con cái. Liệu giới lao động Trung Quốc có thoát ra khỏi các ổ
chuột để tiến lên mức sống trung lưu-công nhân và góp phần xây dựng dân chủ hay
không, thật tình không ai biết trước được.
Âu-Mỹ-Nhật đã có 30 năm để xây dựng tầng lớp trung lưu-công
nhân trong khoảng 1950-1980. Đài Loan và Nam Hàn có khoảng 20 năm từ 1980-2000.
Trung Quốc vừa bước sang khúc ngoặc này nên không biết sẽ còn kéo dài bao lâu,
nhưng tiếp theo Hoa Lục thì thế giới thay đổi khiến việc xây dựng thành phần
trung lưu-công nhân trong những quốc gia kém mở mang trở nên vô cùng khó khăn.
Nguyên do vì cuộc chạy đua xuống đáy vực (race to the bottom) giữa các nước chậm
tiến trở nên gấp rút theo nhịp độ toàn cầu hóa và tự động hóa.
Nếu chỉ lấy riêng thí dụ tại Đông-Á thì Hồng Kông bắt đầu với
lao động mồ hôi và cơ bắp (sweatshop) trong các ngành lắp ráp và may mặc vào thập
niên 60. Khi Hồng Kông vượt qua giai đoạn công nhân giá rẻ thì công ăn việc làm
loại này chạy sang Singapore để dùng làm bể phóng, rồi sau đó tới phiên Đài
Loan, Nam Hàn, Trung Quốc, và nay là Việt
Nam, Phi, Indonesia, Bangladesh v.v…Cạnh tranh giữa những quốc gia kém mở mang
ngày càng gay gắt vì các nước cùng học và áp dụng chung một công thức là dùng nhân
công rẻ và xuất khẩu làm bàn đạp trong bước đầu phát triển. Lao động giá rẻ bị toàn
cầu hoá khiến mức cung trở nên dư thừa trên thị trường quốc tế. Giới công nhân ở
Việt Nam không những phải cạnh tranh với nguồn nhân lực từ thôn quê đổ ra thành
thị ở Việt Nam mà còn cả từ Phi, Indonesia, Bangladesh, Pakistan, Mexico, v.v… Áp
lực giá cả khiến công nhân Việt Nam
muốn đòi tăng lương thì hảng xưởng Tàu, Đại Hàn, Đài Loan sẽ chạy sang các nước
khác. Bên cạnh đó tự động hóa (và chiến tranh thương mại) còn đe dọa đến công ăn
việc làm của người lao động toàn cầu. Cho nên gọi là cuộc chạy đua xuống đáy vực
giữa các nước đang mở mang thay vì nâng cao giá trị gia tăng nay phải tranh giành
khâu lắp ráp và may mặc nên không thể cải thiện quyền lợi người lao động. Kẻ
chiến thắng trong cuộc chạy đua này dù ở các nước công nghiệp hay đang mở mang
chính là các đại tập đoàn, những nhà tỷ phú và lớp trí thức ưu tú thích ứng với
trào lưu toàn cầu hóa trong khi thành phần lao động công nhân ngày càng bị bỏ rơi.
Áp lực từ toàn cầu hóa đè nặng lên giới công nhân, dù lương
bổng có tăng theo GDP nhưng hố sâu giàu nghèo ngày thêm rộng. Người lao động
Việt, Phi, Indonesia, Bangladesh, Pakistan, v.v… khi dọn từ thôn quê ra thành
phố sẽ trọn đời sống trong các ổ chuột mà không thể nào mơ mộng mua được căn nhà
trị giá 500 ngàn USD trở lên và cho con cái du học để có mảnh bằng tốt nhằm bắt
kịp với giới trung lưu-thành thị chớ đừng nói gì đến các đại gia.
Nhưng chính tình trạng xấu này lại mang đến một hệ lụy bất
ngờ tương đối tốt, khi công nhân ở các nước đang mở mang vì không có cơ hội định
cư mọc rễ ở thành thị nên để dành tiền xây nhà và lập gia đình ở thôn quê giúp
nông thôn phát triển. Khi kinh tế toàn cầu suy sụp, hảng xưởng ồ ạt sa thải nhân
viên thì hàng chục triệu công nhân trở về làng mạt sinh sống như từng xảy ra tại
Trung Quốc năm 2008. Việc này làm giảm nhẹ cơn tác động và nổi bất mản do khủng
hoảng gây nên.
Kết luận là việc xây dựng thành phần trung lưu-công nhân và
nền dân chủ ở Trung Quốc và các nước đang mở mang trở nên vô cùng khó khăn so với
Âu-Mỹ-Nhật-Đài Loan-Nam Hàn may mắn đi trước. Nhưng ngược lại chính Âu-Mỹ đang đánh
mất các cơ xưởng sản xuất vốn là cổ máy nuôi dưỡng thành phần trung lưu-công nhân
nên nay rơi vào xáo trộn xã hội.
Bài 8 tiếp theo sẽ phân tích giải pháp cho tình trạng giàu
nghèo chênh lệch không phải bằng cách san bằng tài sản trong xã hội mà chính nhờ
tạo môi trường cho mọi người có cơ hội thăng tiến đồng đều (equal opportunity).
Còn bằng không thiếu cơ hội thăng tiến (lack of opportunity) sẽ dẫn đến tâm lý
bi quan, bất mãn và chống đối trong xã hội.
No comments:
Post a Comment